I. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH
Đình Sừng nằm ở phía Đông Nam của xã Lăng Thành, cách thành phố Vinh 65 km về phía Tây Bắc và cách huyện lỵ Yên Thành 7km về phía Đông Bắc. Từ lúc xây dựng đến nay, vị trí, tên gọi không thay đổi nhưng tên gọi đơn vị hành chính các cấp có sự thay đổi qua các thời kì như:
- Năm 1583, di tích thuộc xã Quỳ Lăng, tổng Quỳ Trạch, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, Nghệ An thừa tuyên.
- Năm 1837, dưới triều vua Minh Mệnh, huyện Đông Thành được chia thành 2 huyện, lúc này di tích thuộc huyện Yên Thành.
- Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, di tích thuộc xã Sào , huyện Yên Thành. Năm 1950, xã Sào Nam nhập với xã Thanh Dương và xã Mã Thành thành xã Hồng Thắng. Năm 1953, các xã được chia tách lại, di tích thuộc xã Lăng Thành.
- Hiện nay di tích thuộc xóm Quỳ Lăng xã Lăng Thành, một xã thuộc vùng bán sơn địa của huyện Yên Thành.
Du khách có thể đến thăm đình Sừng bằng nhiều cung đường với nhiều phương tiện khác nhau nhưng thuận lợi hơn cả vẫn là đi bằng ô tô hoặc xe gắn máy theo chỉ dẫn sau: Nếu du khách lấy thành phố Vinh là điểm xuất phát theo hướng Vinh - Hà Nội trên quốc lộ 1A, đến km 45 ngã 3 Cầu Bùng, huyện Diễn Châu, du khách rẽ trái theo đường tỉnh lộ 538, đến km 12 thuộc địa phận Thị trấn Yên Thành thì rẽ tay phải theo đường liên huyện đi qua xã Văn Thành, Phúc Thành, Hậu Thành đến Lăng Thành là đến di tích.
II. NHÂN VÂT THỜ VÀ SỰ KIỆN LỊCH SỬ:
1. Nhân vật thờ:
Hiện nay, tại đình Sừng không còn tài liệu ghi chép về các nhân vật được thờ tại đình nhưng qua Thần tích và khoa giáp ở Nghệ An, các tài liệu lưu trong bảo tàng Nghệ An, đồng thời, qua khảo sát thực tế tại xã Lăng Thành, có thể khẳng định rằng Đình Sừng là nơi thờ thành hoàng, Cao Sơn Cao Các và những người có nhiều công lao khai hoang mở đất, dựng nghiệp cho các thế hệ con cháu nối tiếp muôn đời trên đất Quỳ Lăng, là nơi hộp họp, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong vùng Lăng Thành - Yên Thành - Nghệ An.
- Cao Sơn: Xem di tích đình Hậu xã Bắc Thành, tr9;
Hiện nay, ở xóm Làng Nghè xã Lăng Thành vẫn còn lưu được phế tích của đền thờ Cao Sơn. Theo các vị cao nhân xưa kể lại, đền này xưa có 3 tên gọi khác nhau là "Đền Cao Sơn Đại vương", "Đền Đệ Nhị" hay "Đền Chánh".
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian gần đây, đặc biệt là Tục thờ thần và thần tích ở Nghệ An của giáo sư Ninh Viết Giao thì thần Cao Sơn được gắn với rất nhiều thần tích và thần hiệu khác nhau. Chỉ riêng huyện Đông Thành xưa đã có 4 - 5 sự tích khác nhau, nơi thì Cao Sơn gắn với Cao Lỗ - một vị tướng của Thục An Dương Vương, nơi thì thần gắn ngôi nhà trên núi Di Lặc ở huyện Diễn Châu,... như làng Quỳ Lăng và một số làng khác đã truyền tụng, nơi lại gắn cả Cao Sơn với Cao Các với 2 ngọn núi ở 2 xã Công Thành và Sơn Thành, huyện Đông Thành. Nhưng dù gắn với sự tích, thần hiệu gì thì Cao Sơn vẫn chỉ là "một ông thần núi có sức mạnh kì diệu, đã từng giúp đỡ nhân dân, đứng về phía nhân dân, bảo vệ cuộc sống của nhân dân" và "tất cả hi vọng của nhân dân ta ngày trước về một xã hội thanh bình mùa màng bội thu, chống được thiên tai, không dịch tễ, mọi người no ấm, khỏe mạnh, trai tài, gái sắc đều được gửi gắm trong vị thần Cao Sơn - Cao Các". Nhân dân làng Quỳ Lăng xưa vốn sống nơi rừng núi là chủ yếu, cuộc sống phần nào đã phụ thuộc vào thiên nhiên nên họ càng đề cao sức mạnh của thần núi, thần đá. Cũng chính vì vậy, họ đã tôn sơn thần làm vị thần đức thánh đệ nhất - vị thần lớn nhất của làng để cầu mong che chở phù hộ dân làng.
2. Sự kiện lịch sử:
Làng Quỳ Lăng xưa có tên là gọi là kẻ Sừng, đây là một ngôi làng cổ, có địa thế tương đối độc đáo. Trước mặt là cánh đồng rộng lớn, sau là núi cao trùng điệp, một vùng đất không những thuận lợi cho việc phòng thủ trong chiến tranh, tiến có thể đánh, lui có thể giữ mà còn có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế như trồng và khai thác rừng, chăn nuôi, trồng lúa nước, hoa màu... Chính vì lợi thế độc đáo đó mà vùng đất kẻ Sừng đã sớm trở thành nơi quần cư của người Kinh và là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa quan trọng của phủ Châu Diễn nói riêng và của cả nước nói chung. Ngay từ khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để đặt ra Diễn Châu, làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ phủ. Từ năm 679 đến năm 979, liên tục trong 3 thế kỉ, kẻ Sừng đã được chọn làm nơi đóng lỵ sở của Diễn Châu. Đến năm 980 - năm đầu tiên của triều tiền Lê, lỵ sở Diễn Châu được chuyển đến vùng Kẻ Dền - Công Trung Thượng, nay thuộc xã Văn Thành, huyện Yên Thành.
Theo văn bia hiện còn lại tại đình Sừng thì đình Sừng được nhân dân làng Quỳ Lăng bắt đầu xây dựng vào tháng 11 năm 1583 để làm nơi hội họp, sinh hoạt văn hóa của dân làng. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một vùng dân cư đông đúc, xung quanh có làng mạc, cây đa, bến nước và con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng đồng. Cùng với những kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ. Đến năm 1797, do nhu cầu văn hóa tâm linh cao, ngôi đền đã không đủ chỗ cho dân làng làm lễ tế trong các dịp lễ trọng nên làng đã xây dựng thêm nhà Hậu cung làm nơi bài trí thờ phụng thành hoàng, Cao Sơn. Từ đó, cứ vào dịp lễ Cầu yên vào ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng năm, làng lại tổ chức lễ lớn tại Đình Sừng.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình Sừng đã được tu sửa nhiều lần vào các năm 1637, 1677, 1797, 1844, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu, xây dựng lại to đẹp như ngày nay. Việc này đã được ghi lại trong bản sơ thảo lịch sử quê hương, xã Lăng Thành còn chép lại: Vào năm Đinh Mão 1927, dân làng Quỳ Lăng bắt tay vào việc chuẩn bị lấy gỗ, tiền bạc... để tu sửa lại đình. Về gỗ, làng chia cho 11 giáp là giáp Đông, giáp Tây, giáp Nam, giáp Bắc, giáp Nghè, giáp Danh, giáp Trụ Sáo, giáp Thọ Cầu, giáp Đồng Lạc, giáp Đa, giáp Trung đi chọn và khai thác các loại gỗ lim tốt nhất trong rừng của làng Quỳ Lăng. Về tiền, làng đặt cho thợ 5 ngàn quan thu từ việc bán các chức sắc của làng như hiệu xã, thần tổ của làng tu bổ theo đinh, điền. Về ngói, làng tự lập ra tổ thợ mở lò, dập theo khuôn riêng và nung theo tiêu chuẩn. Sau 3 năm chuẩn bị, đến năm 1929, việc tôn tạo, xây dựng lại đình Sừng được khởi công dưới sự chỉ đạo của đốc công Hoàng Doãn Cù. Để rút ngắn thời gian thi công, làng đã thuê hai hiệp thợ, một hiệp thợ của ông phó Tu - người làng Phú Minh, xã Quỳnh nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An - chịu trách nhiệm làm các vì phía Đông, một hiệp thợ của ông phó Tới - người xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu - chịu trách nhiệm làm các vì phía Tây. Sau 6 tháng thi công, đến đầu năm 1930, việc trùng tu, tôn tạo lại đình đã được hoàn thành với kiến trúc thời Nguyễn với quy mô đồ sộ. Hai nhà Tả vu và Hữu vu cũng được xây dựng trong thời kì này. Đến nay, địa phương vẫn còn truyền miệng nhiều thơ ca dân gian phản ánh phần nào không khí sôi động của làng trong lần tôn tạo, xây dựng đình năm 1929 như sau:
“Bấy giờ họp xã đinh, tiền
Người bỏ vô điện, người bỏ vô đình
Dưới trên ai nấy thuận tình
Trống đánh rập rình reo ca cả đêm
Ba năm kéo gỗ một miền
Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”.
Hay:
“Vầy (vì) Tây mạnh mẽ kéo lên
Vầy Đông ục ịch chờ thêm người vào
Ngẫm xem tay thợ ai cao
Rõ ràng vang dội chào ông phó Tời”.
Nhưng từ sau những năm 1930 - 1931, các kiến trúc cổ quanh đình đã dần bị mất mát và hư hỏng. Đặc biệt là từ khi công trình thủy lợi Vách Bắc được đào đắp, xây dựng vào năm 1978, vùng đất này thường xuyên bị lũ lụt kéo dài nên làng mạc, chợ búa ở quanh đình phải dời đi nơi khác, cảnh quan quanh đình cũng dần thưa thớt.
Hiện nay, đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề là những cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi đây vẫn thoáng đãng, mát mẻ. Nằm cách đình một quãng về phía Đông là sông Dinh, một đoạn trong hệ thống tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm xen giữa những vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn.
Trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, đình Sừng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ và gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng. Trong những năm 1930 - 1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của Chi bộ Quỳ Lăng - một trong những Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Yên Thành.
Trong khoảng thời gian 1932 - 1933, để tăng cường lực lượng vào những nơi xung yếu, thực dân Pháp đã lấy đình Sừng là nơi đóng đồn. Tại đây, bọn chúng đã giam cầm, bắt bớ, tra tấn trên 100 cán bộ, đảng viên của ta.
Từ năm 1935 - 1945 và nhiều năm sau đó đình dùng làm trường học cho con em trong xã.
Ngày 12 tháng 8 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban khởi nghĩa, đình Sừng là nơi tập trung quần chúng nhân dân mà lực lượng nòng cốt là thanh niên và nông dân, tay cầm cờ đỏ sao vàng, giáo mác, gậy gộc để tổ chức cướp chính quyền từ tay bọn thực dân phong kiến.
Sau khi dành chính quyền, đình Sừng đã trở thành trụ sở làm việc đầu tiên của Ủy ban lâm thời của xã Quỳ Lăng và là nơi tổ chức mít tinh, diễn thuyết của Đảng để giải thích những chủ trương, chính sách của Chính phủ lâm thời... Đồng thời, Đình cũng là nơi tổ chức các cuộc thi "Thoát nạn mù chữ", các cuộc vận động, tuyên truyền quyên góp như: "Tuần lễ vàng", "Tuần lễ vũ khí", "Công phiếu kháng chiến", "Công trái quốc gia", nuôi cán bộ, đón thương binh về làng... đạt được kết quả lớn. Người quyên góp nhiều nhất là ông Hoàng Tuyền, một địa chủ trong làng đã hưởng ứng cuộc vận động "Bán lúa khao quân", ông đã bán 550 tạ lúa và đã đạt giải nhất toàn tỉnh Nghệ An trong cuộc vận động lúc bấy giờ. Trong thời điểm này đình đã trở thành kho chứa thóc để cung cấp cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Năm 1949, trong trận đổ bộ vào Quỳnh Lưu, giặc Pháp đã đã ném bom vào khu vực đình. Đến năm 1965, giặc Mĩ ném bom vào đình Sừng lần thứ hai nhưng thật may mắn, cả hai lần đánh bom trên đều không dội trúng vào phần kiến trúc của đình.
Trong kháng chiến chống Mĩ, đình Sừng từng là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4 trong một thời gian dài.
Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như tế thần, rước kiệu, hát ả đào, hát chèo, vật cù lộ, đồng thời, đình còn là nơi tổ chức hội họp của các đoàn thể, tổ chức địa phương.
III. KHẢO TẢ DI TÍCH:
Đình Sừng trước đây có 5 công trình là Đình, Hậu cung, nhà Tả vu - Hữu vu và một nhà Miếu nhưng nhà Tả vu và Hữu vu đã bị dỡ để làm trường học nên hiện nay còn lại 3 hạng mục công trình là Đình, Hậu cung và nhà Miếu được làm theo lối kiến trúc thời Nguyễn.
Đình còn có một mảnh vườn diện tích 4.206m2 được trồng rau, cây ăn quả xung quanh là một lớp bờ rào bằng cây xanh nay đã được xây bờ bao.
Điều đặc biệt ở đây là đình được làm bởi hai hiệp thợ khác nhau, nửa đình phía Đông do thợ Quỳnh Lưu làm, nửa đình phía Tây giao cho thợ Diễn Châu làm. Sau khi thống nhất khuôn mẫu và kích thước, hai bênh tiến hành làm trong một thời gian quy định nhưng phải giữ kín bí mật, không được trao đổi với nhau. Sau khi các vì, sàm đục xong, làng quyết định chọn ngày dựng đình, mỗi bên huy động khoảng 300 người, dùng dây tre bện lại với nhau để kéo, khi có hiệu lệnh cả hai bên cùng kéo vầy lên một lúc. Mặc dù làm bằng phương pháp thủ công, nhưng khi dựng lên hai phần đình đều khít với nhau và các cột đình đều được kê trên các hòn đá tảng. Điều đó đã khẳng định và chứng minh cho tài nghệ của các nghệ nhân ngày trước. Dù được làm theo mô định sẵn, các mảng chạm trổ cùng một đề tài, nhưng thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau, tất cả đều toát lên sự thanh cao, tinh khiết.
1. Tòa đình:
Tòa đình hai đầu xây tường bẻ góc về phía trước còn hai mặt trước sau để trống. Trên bờ nóc trang trí rất đơn giản, phía ngoài trang trí giống bốn góc mái đều là các đầu đao dạng vân mây, giữa là hình ảnh lưỡng long triều nguyệt. Hai đầu tường bít đốc đắp nổi các họa tiết rồng cách điệu rất sinh động. Trong khi bít đốc phải đắp nổi hình tượng rồng rất đơn giản, rõ nét thì bít đốc phía trái được trang trí có vẻ rườm rà nhưng vẫn rất sắc sảo và tinh tế.
Tòa đình có dài 24,7m, rộng 11,2m, quay mặt về phía , khung làm hoàn toàn bằng gỗ lim, kích thước lớn, lợp ngói âm dương. Nền nhà được làm bằng đất sạn sỏi, có độ cứng cao, móng đình cao hơn 0,5m so với sân và vườn đình. Xung quanh móng được giằng bằng đá ong.
Về kiến trúc, tòa đình có 6 vì được liên kết lại với nhau bởi đường thượng lương và hệ thống các giằng, cột, xà dọc, xà ngang đóng khít, tạo thành 5 gian rộng và 2 gian phụ ở hai đầu hồi văn. Mỗi vì có 4 cột, gồm 2 cột cái cao 5,63m và 2 cột quân cao 4,33m. Toàn bộ tòa đình có 24 cột, tất cả đều có hình trụ tròn, bào nhẵn, kê trên một chân tảng bằng đá thanh, màu trắng xám, dáng vuông thành sắc cạnh. Các chân tảng ở đây có kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc hoàn toàn giống nhau với kích cỡ là 0,75m x 0,75m x 0,20m. Các cột được liên kết với nhau bởi hệ thống giá chiêng kẻ chuyền. Các xà, hạ, kẻ ở đình có kích thước lớn, được bào trơn và được trạm trổ rất công phu, tinh xảo. Đề tài trang trí kiến trúc ở đây chủ yếu xoay quanh mô típ quen thuộc như tứ linh, tứ quý nhưng đã được các nghệ nhân bố trí một cách hài hòa, cân đối, nghệ thuật chạm khắc đạt tới trình độ cao, toát lên vẻ đẹp sinh động và rất có thần, cuốn hút người xem. Đáng chú nhất là 4 bức chạm khắc trên bốn bức cốn mê trên bốn góc của tòa đình. Tại đó với cách bố trí đăng đối, cân xứng và nghệ thuật chạm lộng tỉ mỉ, công phu mang tính cách điệu cao. Các hình tượng trong tứ linh đã được rải đều trên bốn góc của tòa đình và thể hiện mảnh mại, uyển chuyển.
Đặc biệt, trên tất cả các kẻ đều được chạm khắc 2 mặt với nhiều đề tài trang trí xen kẽ nhau như phượng ngoạm thư, cá hóa rồng, rồng chầu... Hình tượng long vân, cũng được dùng để trang trí nhiều trên các xà, đầu dư, đuôi bẩy một cách sinh động làm cho người xem như đang thấy rồng ẩn hiện trong mây.
2. Bia:
Bia đá ở gian phía Tây cao 1,38m, rộng 0,75m, được khắc chữ hai mặt. Qua dịch thuật văn bia, thì bia này được dựng vào năm 1637, còn văn bia thì được khắc vào năm 1677. Nội dung bia ghi lại thời gian khởi dựng đình Sừng, thời gian dựng bia, thời gian tu sửa, tôn tạo, sự đóng góp của các quan viên, chức sắc, sinh đồ ở làng Quỳ Lăng trong các lần tu sửa đình. Bia có kiểu dáng đơn giản, mảnh mai và còn nguyên vẹn. Chân bia được làm vuông thành sắc cạnh và chờm ra ngoài thân bia, thân bia hình chữ nhật, trán bia hình ô van có cấu tạo hình lá đề.
Bia đá nằm ở gian cuối phía Đông cao 1,7m, rộng 0,5m. Bia được dựng vào năm 1844, cũng gồm 3 phần: chân bia làm vuông thành sắc cạnh, trang trí thêm hình cúc dây; thân bia có hình trụ khối tạo thành 4 mặt hình chữ nhật, bốn mặt khắc chữ, xung quanh đắp nổi đường gờ; trán bia có cấu tạo hình chóp. Nội dung bia ghi lại những lần tu sửa đình, từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) đến triều Duy Tân (1913).
3. Nhà Hậu cung:
Từ tòa đình đến nhà Hậu cung là khoảng sân lộ thiên rộng 8m . Theo tài liệu kiểm kê di tích năm 1964, nhà Hậu cung lúc đầu gồm có 3 gian, với diện tích là 81.6m2. Khung nhà cũng dược làm hoàn toàn bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm dương, 3 phía xây tường, đóng mở bằng cửa bàn khoa. Trên các xà, kèo được chạm lộng tinh vi, sắc xảo. Phía trước đắp phù điêu tượng quan văn, quan võ ở 2 bên tường. Trong nhà có bài trí 2 long ngai, 2 hương án và nhiều đồ tế khí đẹp, trong đó có một lư hương đá cao 0,24m được làm vào năm 1875. Nhưng do chiến tranh mà tòa Hậu cung đã bị phá dỡ trong chiến tranh chống Mỹ.
Tòa Hậu cung hiện nay được chuyển từ đền Nghè - một ngôi đền ở làng Quỳ Lăng về từ năm 1995 và đã được nhân dân địa phương đặt vào vị trí nền móng nhà Hậu cung cũ để bảo vệ và sử dụng. Nhà Hậu cung có chiều dài là 9,75m, chiều rộng là 5,2m, Khung nhà làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm dương, nền làm bằng đất sạn sỏi nên có độ cứng cao, năm 2022 đã được tu bổ lại nền làm bằng gạch đỏ. Nhà được làm theo kiến trúc triều Nguyễn gồm có 4 vì, 3 gian và 2 hồi văn. Cột cái cao 3,35m, đường kính 2,20m; cột quân cao 2,64m, đường kính 2,20m. Toàn bộ các cột được kê trên đá tảng vuông thành sắc cạnh, có kích cỡ 0,5m x 0,5m x 0,2m. Nhà Hậu cung được bố trí các án thư, bàn thờ và các đồ tế khí ở cả 3 gian để thờ các vị Thành hoàng làng.
Xưa kia, tòa Hậu cung của đình có bài trí hai long ngai, bài vị và nhiều đồ tế khí khác để thờ phụng các vị Thành hoàng của làng, nhưng do hạn chế về mặt nhận thức trong việc bài trừ mê tín dị đoan nên những năm 1955 - 1960, các long ngai, bài vị cùng các đồ tế khí đã bị đem ra đốt cháy hết.
4. Nhà Miếu:
Nhà Miếu nằm cách nhà Hậu cung 10,4m về phía Đông là nhà miếu hay còn gọi là miếu thờ thần bản thổ với diện tích là 4,45m x 3,15m. Cũng như Tòa đình, nhà Hậu cung, nhà Miếu cũng được làm theo kiểu kiến trúc thời Nguyễn, khung làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đất sạn sỏi. Nhà có 3 vì, 2 gian thờ dọc, mỗi vì 2 cột, đặc biệt là không có cột quân, mỗi cột cao 2m, đường kính 170cm và được kê trên các tảng đá vuông thành sắc cạnh, kích thước rộng 3m, cao 0,15m.
Trước đây, nhà Miếu có bài trí một số đồ tế khí để thờ thần bản thổ nhưng nay đã không còn. Trên ván lá đề ở vì kèo gian giữa có khắc chữ Hán: "Hoàng triều Duy Tân, Quý sửu niên tôn tạo, Trong xuân nguyệt lạc thành", như vậy, nhà Miếu được tôn tạo vào mùa xuân năm Quý Sửu, triều vua Duy Tân.
Huyện Yên Thành được thành lập và tách ra từ huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu vào năm Minh Mệnh thứ 18 (1837). Gần 300 năm có tên Yên Thành nhưng sự tồn tại các di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh trên đất Yên Thành đã có từ ngàn năm. Và hôm nay, du khách sẽ được tham quan chương trình du lịch "Yên Thành vùng đất cổ" và điểm đến của chúng ta là Đình Sừng - di tích cổ nhất và đẹp nhất của Đông Thành nhị huyện xưa và là một trong những công trình kiến trúc cổ, có quy mô đồ sộ, nghệ thuật trang trí, điêu khắc chạm trổ đẹp vào loại bậc nhất ở Nghệ An. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, ngày 29/10/2003, Đình Sừng đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 59/QĐ-BVHTT.
Một số hình ảnh sinh hoạt văn hóa tại Đình Sừng